Phụng sự Hậu Đường Thạch Kính Đường

Thời Trang Tông

Năm 923, Lý Tồn Úc xưng đế, lập quốc Hậu Đường, sau đó tiến hành một chiến dịch diệt Hậu Lương trong cùng năm, Lý Tự Nguyên đóng vai trò nổi bật trong chiến dịch.[6] Thạch Kính Đường và Lý Tòng Kha[c 4] đều lập được công lớn trong chiến dịch, song Trang Tông Lý Tồn Úc không ban phú quý cho Thạch Kính Đường vì theo ghi chép thì ông không thích kể công [nên công lao không nổi tiếng], duy có Lý Tự Nguyên là biết.[1]

Sau khi chinh phục được Tiền Thục, năm 926, Hậu Đường Trang Tông cho sát hại hai danh tướng là Quách Sùng ThaoLý Kế Lân, khiến quân đội Hậu Đường trên dưới đều lo sợ và tức giận. Trang Tông phái Lý Tự Nguyên đi trấn áp binh biến tại Nghiệp Đô[c 5], song binh sĩ của Lý Tự Nguyên lại tiến hành binh biến và buộc Lý Tự Nguyên phải tham dự nổi dậy với binh sĩ Nghiệp Đô. Khi Lý Tự Nguyên thoát được khỏi Nghiệp Đô, Thạch Kính Đường thuyết phục Lý Tự Nguyên rằng muốn sự thành cần phải quả quyết, rằng Lý Tự Nguyên đã cùng quân phản loạn nhập thành thì sau này không thể được yên. Do khuyến nghị của Thạch Kính Đường và những người khác, Lý Tự Nguyên cuối cùng quyết định tập hợp binh sĩ và tiến về phía nam, ban đầu tiến về bồi đô Đại Lương[c 6] và sau đó là đế đô Lạc Dương. Trong chiến dịch này, Thạch Kính Đường và Lý Tòng Kha tiếp tục đóng vai trò quan trọng.[7] Ngày Đinh Hợi tháng 4 (15 tháng 5), Hậu Đường Trang Tông bị sát hại trong một cuộc binh biến tại Lạc Dương, Lý Tự Nguyên sau đó tiến vào thành và trở thành giám quốc.[8]

Thời Minh Tông

Đương thời, hoàng tử của Trang Tông là Ngụy vương Lý Kế Ngập đang đem quân chinh Thục trở về, hướng về Lạc Dương. Lý Tự Nguyên lo sợ sẽ xảy ra rỗi loạn, bèn bổ nhiệm Thạch Kính Đường làm Thiểm châu[c 7] lưu hậu vào ngày Mậu Tuất (12) tháng 4 (26 tháng 5), hôm sau thì bổ nhiệm Lý Tòng Kha làm Hà Trung[c 8], dẫn quân phòng thủ. Tuy nhiên, binh sĩ của Lý Kế Ngập bỏ trốn, và người này quyết định tự sát. Thuộc cấp của Lý Kế Ngập và Nhâm Hoàn đem số quân còn lại đi về phía đông, Lý Tự Nguyên mệnh Thạch Kính Đường úy phủ, đám quân này đều quy phục. Lý Tự Nguyên tức hoàng đế vị vào ngày Bính Ngọ cùng tháng (3 tháng 6), tức Hậu Đường Minh Tông.[8]

Sang tháng 5, Thạch Kính Đường được thăng làm Quang lộc đại phu, kiểm hiệu tư đồ, đảm nhiệm Bảo Nghĩa[c 9] tiết độ sứ. Tháng 2 năm Đinh Hợi (927), Thạch Kính Đường được thăng làm Kiểm hiệu thái phó, kiêm Lục quân chư vệ phó sứ, tiến phong Khai quốc bá, tăng thực ấp lên 400 hộ. Cùng tháng, Thạch Kính Đường nhập triều[1] (hoàng tử của Minh Tông là Lý Tòng Hậu là Phán lục quân chư vệ sự).[8] Sang tháng 8, Minh Tông thăng thực ấp của Thạch Kính Đường lên 800 hộ, thực phong 100 hộ, biểu dương cống hiến của ông.[1]

Tháng 10 năm đó, do Tuyên Vũ[c 10] tiết độ sứ Chu Thủ Ân nổi dậy, Minh Tông cho Phạm Diên Quang đem quân đi đánh thủ phủ của Tuyên Vũ là thành Đại Lương, rồi mệnh Ngự doanh sứ Thạch Kính Đường đem thân quân tiếp ứng, sau đó Minh Tông cũng đến sát thành Đại Lương. Do nhận thấy tình hình vô vọng nên Chu Thủ Ân tự sát. Ngày Quý Mão cùng tháng (22 tháng 11), Minh Tông bổ nhiệm Thạch Kính Đường làm Tuyên Vũ tiết độ sứ, kiêm Thị vệ thân quân mã bộ đô chỉ huy sứ. Ngày Mậu Dần (3) tháng 4 năm Mậu Tý (25 tháng 4 năm 928), Lý Tự Nguyên bổ nhiệm Thạch Kính Đường là Nghiệp Đô lưu thủ, Thiên Hùng[c 11] tiết độ sứ, thăng làm Đồng bình chương sự,[9] Ngày Đinh Mùi (3) tháng 5 (24 tháng 5), Thạch Kính Đường được thăng làm Phò mã đô úy.[1]

Tháng 2 năm Trường Hưng thứ 1 (930), Minh Tông nam giao lễ tất, thăng Thạch Kính Đường làm Kiểm hiệu thái úy, tăng thực ấp 500 hộ. Đương thời, Nghiệp Đô là nơi phồn phú, dân tranh tụng nhiều, Thạch Kính Đường lệnh để hòm thư ở cửa phủ và thường xuyên xem xét, xử nhiều vụ án và bỏ tù nhiều người.[1]

Tháng 9 năm đó, hai tiết độ sứ lớn tại Thục (do Trang Tông bổ nhiệm) là Tây Xuyên[c 12] tiết độ sứ Mạnh Tri Tường và Đông Xuyên[c 13] tiết độ sứ Đổng Chương cùng nổi dậy do lo sợ Xu mật sứ An Trọng Hối. Minh Tông bổ nhiệm Thạch Kính Đường làm Đông xuyên hành doanh đô chiêu thảo sứ, kiêm tri Đông Xuyên hành phủ sự. Ngày Nhâm Thìn (3) tháng 12 (25 tháng 12), Thạch Kính Đường tiến đến Kiếm Môn quan, song sau khi chiếm được cứ điểm này thì không thể dễ dàng tiến quân hơn nữa trước quân Đông Xuyên và Tây Nguyên. Sau đó, Minh Tông khiển An Trọng Hối đến đốc chiến, Thạch Kính Đường từ đầu vốn không muốn Tây chinh, nhân cơ hội này bèn dâng biểu tấu luận cho Minh Tông, nói rằng không thể chinh phạt được Thục, Minh Tông phần nào bị thuyết phục. Sau đó, Minh Tông buộc An Trọng Hối đi làm tiết độ sứ rồi sát hại, triệu hồi quân của Thạch Kính Đường (song Thạch Kính Đường bắt đầu thoái quân từ trước đó). Đến ngày Kỉ Dậu tháng 4 năm Tân Mão (11 tháng 5 năm 931), Thạch Kính Đường lại được kiêm Lục quân chư vệ phó sứ (dưới quyền Tần vương Lý Tòng Vinh).[10] Sang tháng 6, ông được bổ nhiệm làm Hà Dương[c 14] tiết độ sứ.[1]

Lý Tòng Vinh ghen tị với Lý Tòng Hậu, xem mình là người kế vị phù hợp do là mẫu huynh, còn khinh thường hà hiếp bá quan. Thê của Thạch Kính Đường lúc này được phong tước Vĩnh Ninh công chúa- có mẹ đẻ là Tào hoàng hậu, còn mẫu thân của Lý Tòng Vinh là Hạ thị, công chúa và Lý Tòng Vinh ganh ghét lẫn nhau. Thạch Kính Đường không muốn cộng sự với Lý Tòng Vinh, thường muốn được bổ nhiệm ở ngoài kinh thành để tránh họa. Ngày Đinh Hợi (9) tháng 11 (9 tháng 12), Minh Tông bổ nhiệm Thạch Kính Đường làm Bắc Kinh lưu thủ, Hà Đông[c 15] tiết độ sứ, kiêm Thị trung, kiêm Đại Đồng, Chấn Vũ, Chương Quốc, Uy Tắc đẳng quân Phiên-Hán mã bộ tổng quản. Thạch Kính Đường đến thành Tấn Dương, cho bộ tướng Lưu Tri Viễn, Chu Côi (周瓌) làm đô áp nha, đặt làm tâm phúc, quân sự ủy thác cho Lưu Tri Viễn, còn tài chính ủy thác cho Chu Côi.[11]

Cuối năm 933, Lý Tự Nguyên lâm trọng bệnh, Lý Tòng Vinh dùng vũ lực đoạt lấy quyền kiểm soát triều đình, song thất bại dưới tay của các Xu mật sứ Chu Hoằng Chiêu và Phùng Vân, và bị giết. Sau khi Lý Tự Nguyên mất, Lý Tòng Hậu đến Lạc Dương và tức hoàng đế vị vào ngày Quý Mão (1) tháng 12 (20 tháng 12)[11]

Thời Lý Tòng Hậu

Đến ngày Mậu Tý (17) tháng 1 năm Giáp Ngọ (3 tháng 2 năm 934), Lý Tòng Hậu cho Thạch Kính Đường kiêm Trung thư lệnh.[11]

Chu Hoằng Chiêu và Phùng Vân nắm giữ triều chính, hai người này có ngờ vực với Thạch Kính Đường và Lý Tòng Kha do từng lập được đại công dưới quyền Minh Tông.[11] Do không muốn Thạch Kính Đường ở lâu tại Thái Nguyên và muốn triệu Mạnh Hán Quỳnh từ Thiên Hùng về triều, ngày Kỉ Mão (9) tháng 2 (26 tháng 3), họ chuyển Thành Đức[c 16] tiết độ sứ Phạm Diên Quang làm Thiên Hùng tiết độ sứ thay thế Mạnh Hán Quỳnh, chuyển Phượng Tướng[c 17] tiết độ sứ Lý Tòng Kha làm Hà Đông tiết độ sứ, chuyển Thạch Kính Đường làm Thành Đức tiết độ sứ. Họ làm vậy mà không cần Lý Tòng Hậu giáng chế thư, mà chỉ cử sứ thần đem lệnh từ Xu mật viện đến trấn.[12]

Lý Tòng Kha bèn tiến hành nổi dậy, Lý Tòng Hậu phái Vương Tư Đồng đem quân đi trấn áp, quân của Vương Tư Đồng sụp đổ sau khi Thiên bì Dương Tư Quyền (楊思權) tiến hành binh biến và đầu hàng Lý Tòng Kha. Lý Tòng Kha hành quân về Lạc Dương.[12] Đêm ngày Mậu Thìn (28) tháng 3 (14 tháng 5), Lý Tòng Hậu chạy khỏi Lạc Dương với chỉ 50 kị binh, hướng đến Ngụy châu- thủ phủ của Thiên Hùng. Trong khi đó, Thạch Kính Đường đang tiến từ Hà Đông về phía nam, ban đầu có ý hỗ trợ Lý Tòng Hậu. Ngày Canh Ngọ (1) tháng 4 (16 tháng 5), Lý Tòng Hậu đến gần Vệ châu[c 18] thì gặp Thạch Kính Đường. Thạch Kính Đường tham vấn Vệ châu thứ sử Vương Hoằng Chí (王弘贄), người này cho rằng sự nghiệp của Lý Tòng Hậu không còn hy vọng. Khi binh sĩ của Lý Tòng Hậu là Cung tiễn khố sứ Sa Thủ Vinh và Bôn Hồng Tiến nghe được, họ trách mắng Thạch Kính Đường xảo trá, Sa Thủ Vinh cố gắng ám sát Thạch Kính Đường song thất bại. Nha nội chỉ huy sứ Lưu Tri Viễn của Thạch Kính Đường dẫn binh tận sát hầu cận và binh sĩ của Lý Tòng Hậu, chỉ tha cho Lý Tòng Hậu, Thạch Kính Đường và tùy tùng tiếp tục đến Lạc Dương (để bày tỏ trung thành với Lý Tòng Kha). Ngày Quý Dậu (4) tháng 4 (19 tháng 5), Tào thái hậu (nhạc mẫu của Thạch Kính Đường) hạ lệnh phế Lý Tòng Hậu và giáng làm Ngạc vương, sau đó lệnh Lý Tòng Kha tức hoàng đế vị, Lý Tòng Kha tuân theo. Lý Tòng Kha sau đó sai người đi sát hại Lý Tòng Hậu.[12]

Thời Lý Tòng Kha

Lý Tòng Kha và Thạch Kính Đường đều là người dũng lực thiện đấu, là thân tín của Minh Tông, song trong lòng ganh đua nhau, vốn không ưa lẫn nhau. Sau khi Lý Tòng Kha tức vị, Thạch Kính Đường bất đắc dĩ nhập triều, sau tang lễ của Minh Tông vẫn không dám xin về Hà Đông. Thạch Kính Đường có bệnh từ lâu, Tào thái hậu và Ngụy Quốc công chúa thường xin cho Thạch Kính Đường, song tướng tá của Lý Tòng Kha nhiều người khuyên nên giữ Thạch Kính Đường lại kinh thành. Tuy nhiên, Xu mật sứ Hàn Chiêu Dận và Lý Chuyên Mỹ cho rằng giữ Thạch Kính Đường ở lại Lạc Dương sẽ khiến một phò mã khác của Minh Tông là Tuyên Vũ[c 19] tiết độ sứ Triệu Diên Thọ cảm thấy lo sợ [cha của Diên Thọ là Lô Long [c 20] tiết độ sứ Triệu Đức Quân]. Lý Tòng Kha thấy Thạch Kính Đường gầy yếu, cho rằng ông không còn là mối đe dọa, cho phục làm Hà Đông tiết độ sứ, nói rằng "Thạch lang không chỉ thân mật, mà còn đồng gian nan với ta từ thiếu thời. Nay ta là Thiên tử, sao không dựa vào Thạch lang?"[12] (Thạch Kính Đường và những người ủng hộ sau này tuyên bố rằng khi đó Lý Tòng Kha cũng hứa riêng với ông rằng ông sẽ không bao giờ bị chuyển khỏi Hà Đông cho đến cuối đời.)[13]

Sau khi Thạch Kính Đường trở về Hà Đông, Khiết Đan nhiều lần xâm nhập các trấn phía bắc của Hậu Đường. Thạch Kính Đường và Triệu Đức Quân nhiều lần yêu cầu tăng viện để chống Khiết Đan, và họ được phép tích binh lính và vật tư tại trấn của họ. Thạch Kính Đường lo sợ rằng Lý Tòng Kha có thể vẫn nghi ngờ mình, ông hối lộ cho hầu cận của Tào thái hậu nhằm dò xét mật mưu của Lý Tòng Kha tại Lạc Dương, biết rõ sự tình, ngoài ra hai nhi tử của Thạch Kính Đường cũng làm nội sử tại Lạc Dương.[12] (Tên hai người được ghi trong Tân Ngũ Đại sử là Thạch Trọng Anh (石重英) và Thạch Trọng Dận (石重胤),[14] và troing Tư trị thông giám là Thạch Trọng Dận (石重殷) và Thạch Trọng Duệ (石重裔).[13])

Trong năm 935, khi một sứ thần của triều đình đưa quân phục đến cho binh sĩ của Thạch Kính Đường, binh sĩ của Thạch Kính Đường nhiều lần hô vạn tuế. Thạch Kính Đường sợ hãi, Mạc liêu Đoàn Nghi Hiêu (段希堯) thỉnh diệt trừ những người đề xướng, Thạch Kính Đường mệnh Đô áp nha Lưu Tri Viễn trảm 36 binh sĩ, song Lý Tòng Kha vẫn thêm ngờ vực Thạch Kính Đường, và do đó đến ngày Ất Tị (13) tháng 7 (14 tháng 8) thì bổ nhiệm Vũ Ninh[c 21] tiết độ sứ Trương Kính Đạt làm phó của Thạch Kính Đường, tức Bắc diện hành doanh phó tổng quản, nhằm phân tán quyền lực của Thạch Kính Đường.[12]